Giá trần và giá sàn là mức giá cao nhất và thấp nhất có thể đặt lệnh giao dịch trong phiên.
Giá trần (tiếng Anh là ceiling price) là mức giá cao nhất mà nhà đầu tư có thể mua hoặc bán trong phiên giao dịch hôm đó. Giá trần trên bảng điện thường được được biểu thị bằng màu tím.
Giá sàn (tiếng Anh là floor price) là mức giá thấp nhất nhà đầu tư có thể mua hoặc bán trong phiên giao dịch hôm đó. Giá sàn trên bảng điện thường được được biểu thị bằng màu xanh lơ.
Công thức tính giá trần và giá sàn:
Giá trần = Giá tham chiếu x (100% + Biên độ giao động)
Giá sàn = Giá tham chiếu x (100% – Biên độ giao động)
Trong đó, giá tham chiếu là mức giá đóng cửa của phiên giao dịch gần trước đó nhất (đối với sàn HOSE và HNX) và là cơ sở để tính toán giá trần và giá sàn trong phiên giao dịch hôm đó.
Khác với HOSE và HNX, giá tham chiếu của cổ phiếu đăng ký giao dịch trên thị trường UPCoM là trung bình cộng của các mức giá giao dịch lô chẵn theo phương thức khớp lệnh trong ngày gần nhất trước đó. Giá tham chiếu trên bảng điện được biểu thị bằng màu vàng.
Dưới đây là quy định về biên độ giá cổ phiếu giao dịch tại ba sàn giao dịch (so với giá tham chiếu).
Biên độ giá |
HOSE |
HNX |
UpCOM |
Cổ phiếu trong ngày |
7% |
10% |
15% |
Cổ phiếu mới niêm yết trong ngày đầu tiên hoặc được giao dịch trở lại sau khi bị tạm ngừng giao dịch trên 25 ngày |
20% |
30% |
40% |
Cổ phiếu trong ngày giao dịch không hưởng quyền để trả cổ tức hoặc thưởng bằng cổ phiếu quỹ cho cổ đông hiện hữu | 20% | 30% | 40% |
Ví dụ, cổ phiếu SSI được niêm yết trên HOSE có giá tham chiếu là 29.000 đồng. Vậy giá trần, giá sàn của cố phiếu này trong phiên đó sẽ là:
Giá trần = 29.000 x (100% + 7%) = 31.030 đồng
Giá sàn = 29.000 x (100% - 7%) = 26.970 đồng
Như vậy, với bước giá là 50 đồng, nhà đầu tư chỉ được đặt lệnh giao dịch trong khoảng giá 27.000 đến 31.000, không thể vượt quá vùng giá này trong phiên.