Đến để mà thấy là một trong những đặc tính quan trọng của Pháp (lời dạy) mà Đức Thế Tôn khéo léo thuyết giảng. Nó mang ý nghĩa rằng người học có thể kiểm chứng được bằng thực tại của chính mình
Khái niệm này đối lập với việc chỉ nghe miêu tả, tin tưởng dựa trên đức tin tôn giáo, hay hiểu biết thuần túy trên lý thuyết. Phật giáo là “đạo đến để mà thấy” chứ không phải “đạo đến để nhờ người khác thấy hộ”, là “đạo của người có mắt”, “đạo của người thấy, của người biết”, không phải “đạo của người nhắm mắt” hay “không thấy không biết”
ĐỌC BẢN ĐẦY ĐỦ PDF
Tài liệu Tóm tắt (Briefing Doc)
Nguồn: Các đoạn trích từ “03-Đến-để-mà-thấy.pdf”
Tổng quan: Tài liệu này tập trung vào việc làm sáng tỏ giáo lý cốt lõi của Đức Phật, đặc biệt là con đường dẫn đến giải thoát thông qua việc “Đến để mà thấy” (Ehipassiko), khác biệt hoàn toàn với cách tiếp cận dựa trên niềm tin mù quáng hoặc suy diễn tri thức. Nguồn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quán sát thực tại trực tiếp và hiểu biết như thật về Khổ, Tập, Diệt, Đạo (Tứ Thánh Đế) và Duyên Khởi. Nó phân biệt rõ ràng giữa thực tại của phàm phu (dựa trên vô minh và chấp thủ) và thực tại của bậc Thánh (dựa trên trí tuệ và buông xả). Tài liệu phê phán các cách hiểu sai lầm và nhấn mạnh con đường tu tập dựa trên Bát Chánh Đạo để đoạn tận Tham, Sân, Si và đạt đến Niết bàn.
Chủ đề chính và Ý tưởng quan trọng:
- “Đến để mà thấy” (Ehipassiko) – Việc kiểm chứng trực tiếp giáo lý:
- Tài liệu nhấn mạnh rằng giáo lý của Đức Phật không phải là những điều cần tin mà là những sự thật phổ quát có thể tự mình kiểm chứng và thấy.
- “Vậy thì những gì Đức Phật thuyết có thể kiểm chứng được, có thể tự mình thấy, tự mình biết được thì đó phải là những sự thật phổ quát, nơi Đức Phật cũng như vậy, nơi người học cũng như vậy.” (tr. 16)
- Nhân loại có xu hướng “đến để mà tin” thay vì “đến để mà thấy”.
- Ví dụ về vị giòn trong bánh đa: Phàm phu tin rằng vị giòn nằm trong bánh đa. Bậc Thánh quán sát thực tại và thấy rằng vị giòn phát sinh khi răng tiếp xúc với bánh đa (Xúc) và nó là một cảm giác, là Tâm, vô thường và vô ngã.
- “Khi hàm răng tiếp xúc với cái bánh đa (duyên) thì lập tức phát sinh cái giòn mà Thánh hay Phàm đều cảm nhận được. Đây mới là cái giòn thực (không phải là hiểu biết về cái giòn) và nó là một cảm giác, nó là Tâm chứ không phải là Vật.” (tr. 17)
- Lộ trình Văn → Tư → Tu – Con đường phát triển Tuệ:
- Trí tuệ chân chính dẫn đến giác ngộ và giải thoát không phải do suy luận hay tri thức suông.
- Lộ trình đúng đắn là:
- Văn Tuệ: Hiểu biết sự thật do nghe giảng hoặc nghiên cứu kinh điển (như hiểu biết Tứ Thánh Đế do nghe).
- Tư Tuệ: Tư duy sâu sắc hơn về điều đã nghe để thấy sự thật rộng và sâu hơn.
- Tu Tuệ: Tự mình thấy biết sự thật và sống với cái thấy như thật ấy do thực hành Tứ Niệm Xứ (hoặc Bát Chánh Đạo). Đây là trí tuệ dẫn đến chứng ngộ và an trú Tuệ Giải Thoát.
- “Chỉ khi nào thấy như thật do thực hành Tứ Niệm Xứ gọi là Tu Tuệ được tu tập được làm cho viên mãn, lúc đó mới xoá bỏ hoàn toàn Vô Minh, lúc đó…” (tr. 18)
- Rời bỏ lộ trình này mà tìm cầu trí tuệ được ví như “đi tìm lông rùa sừng thỏ”. (tr. 14)
- Bốn yếu tố dẫn đến Giải thoát (theo kệ Pháp Cú 294):
- “Người có trí trú giới / Tu tập Tâm và Tuệ / Nhiệt tâm và thận trọng / Tỷ kheo ấy thoát triền.” (tr. 21)
- Người có trí: Ban đầu là người có Văn Tuệ, hiểu biết như thật về Duyên Khởi, Vô thường, Vô ngã, Bát Tà Đạo do nghe giảng/nghiên cứu.
- Trú giới: Sống đúng giới luật, là nền tảng cho Định và Tuệ.
- Tu tập Tâm và Tuệ: Phát triển Chánh Định và Chánh Kiến/Chánh Tư Duy thông qua thực hành (đặc biệt Tứ Niệm Xứ).
- Nhiệt tâm và thận trọng: Tinh tấn liên tục trong tu tập và suy xét kết quả tu tập (có nhàm chán, ly tham chưa, đoạn diệt ngũ thủ uẩn chưa…).
- Thực tại của Phàm phu vs. Thực tại của Bậc Thánh:
- Thực tại của Phàm phu: Là lộ trình tâm Bát Tà Đạo (Xúc → Thọ → Tưởng → Tà Niệm → Tà Tư duy → Tà Tri kiến → Tham, Sân, Si → Tà Định → Dục → Tà Tinh tấn → Phi như lý tác ý → Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng → Sầu bi khổ ưu não Sinh già bệnh chết…). Đây là thực tại của Khổ, dựa trên Vô minh và chấp thủ.
- “Tất cả con người (ngoại trừ các bậc Thánh) bất luận ngu hay trí, dân tộc, tôn giáo nào, khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần thì đều khởi lên các lộ trình tâm bát tà đạo, đều khởi lên khổ, chẳng trừ một ai. Đây là sự thật phổ quát, là chân lý.” (tr. 38)
- Thực tại của Bậc Thánh: Là lộ trình tâm Bát Chánh Đạo, nơi khi sáu căn tiếp xúc sáu trần, phát sinh Tâm Giải thoát, Tuệ Giải thoát, vắng mặt Tham, Sân, Si, vắng mặt Khổ đau.
- “Đối với bậc Thánh do nhân như vậy, duyên như vậy nên khi sáu Căn tiếp xúc sáu Trần, lộ trình tâm Bát Chánh Đạo khởi lên và nơi Thực tại đó sẽ có Tâm Giải thoát, Tuệ Giải thoát.” (tr. 218)
- Hiểu biết đúng đắn về Khổ và sự chấm dứt Khổ:
- Nhân loại (trừ bậc Thánh) quan niệm chấm dứt Khổ là thay đổi hoàn cảnh bên ngoài hoặc hy vọng vào tương lai (thiên đường sau khi chết).
- “Sự chấm dứt Khổ, nhân loại quan niệm phải thay đổi hoàn cảnh, để có được một hoàn cảnh tốt đẹp, mỹ mãn vào một ngày mai nào đó, một tương lai nào đó.” (tr. 14)
- Hiểu biết như vậy là Vô minh.
- Khổ thực sự phát sinh nơi nội tâm, do Vô minh và Tham ái. “Khổ đau cũng phải tương đương chừng ấy… bởi vì cái gánh nặng mà mọi người đang gánh chịu không phải chỉ có khổ đau mà sự thực một đầu là khổ đau còn đầu kia là hạnh phúc cân bằng nhau.” (tr. 39)
- Chấm dứt Khổ là chấm dứt Vô minh và Tham ái thông qua tu tập Bát Chánh Đạo, thay đổi Tâm từ Bát Tà Đạo sang Bát Chánh Đạo.
- Tầm quan trọng của Tứ Niệm Xứ và Chánh Niệm/Chánh Định:
- Thực hành Tứ Niệm Xứ giúp hành giả kinh nghiệm sự hết khổ ngay trong hiện tại, không phải chờ đợi đến khi hoàn thành một việc gì đó.
- “một Hành giả Tứ Niệm Xứ thực hành Niệm Thân khi quét nhà thì mỗi một nhát chổi đều kinh nghiệm được sự hết khổ chứ không phải quét nhà xong mới hết khổ.” (tr. 15)
- Chánh Niệm (ghi nhớ quán sát) và Chánh Định (sự chú tâm quán sát) là yếu tố quan trọng để lộ trình tâm dừng lại và phát sinh cái biết đúng như thật (Chánh Kiến).
- “Đối với người tu Tứ Niệm Xứ khi căn trần tiếp xúc phát sinh sáu loại cảm giác và sáu cái biết trực tiếp giác quan nếu có Chánh Niệm (nhớ đến quán thân nơi thân hay nhờ đến quán thọ nơi thọ) thì sự chú tâm quán sát sẽ tự động xảy ra.” (tr. 24)
- Đối tượng của Ái là Thọ (Cảm giác) chứ không phải Trần (Đối tượng bên ngoài):
- Quan niệm phổ thông là Ái hướng đến sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp bên ngoài.
- Quan sát sự thật cho thấy đối tượng của Ái là Cảm giác (Thọ).
- Ví dụ quả chuối: khi đói, ăn chuối thấy ngon và thích cảm giác ngon đó. Khi ốm, ăn chuối thấy đắng và ghét cảm giác đắng đó. Cái được cảm nhận và yêu ghét là cảm giác (Thọ), không phải quả chuối (Vị trần).
- “Phải thấy như thật rằng: đối tượng của Ái bao gồm: những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức không phải là sắc thanh hương vị xúc pháp trần… nói tóm lại là đối tượng của Ái là Thọ, là cảm giác chứ không phải là sắc thanh hương vị xúc pháp.” (tr. 46)
- Hiểu biết về Hạnh phúc và Khổ đau (đối với Phàm và Thánh):
- Phàm phu tin rằng hạnh phúc nằm trong các đối tượng bên ngoài (vật chất). Họ trải nghiệm hạnh phúc và khổ đau do nội xúc phát sinh từ sự tương tác giữa thông tin từ bên ngoài và thông tin được lưu trữ trong “kho chứa” (ADN tế bào thần kinh não bộ và tế bào cơ thể).
- “Cảm nhận Hạnh phúc chủ yếu là cảm nhận cảm giác dễ chịu do nội xúc này gây nên.” (tr. 57)
- Bậc Thánh hiểu biết như thật về Khổ (Ngũ Thủ Uẩn là Khổ). Tuệ tri Khổ Diệt hay Niết bàn là sự trống rỗng, sự không có mặt của cả Khổ đau và Hạnh phúc (do lộ trình tâm Bát Chánh Đạo không có Tham, Sân, Si).
- “Chánh kiến như vậy cũng được gọi là Tuệ tri Khổ diệt hay Tuệ tri Niết bàn. Trong cái được tuệ tri đó (Niết bàn) chỉ là sự trống rỗng, sự không có mặt, sự vắng mặt cả Khổ đau lẫn Hạnh phúc.” (tr. 62)
- Kho chứa tri thức (ADN tế bào):
- “Kho chứa” là nơi lưu trữ thông tin tri thức, kinh nghiệm, thói quen, tính cách, đam mê, và đặc biệt là Vô Minh (hiểu biết không đúng sự thật về vô thường, vô ngã, Khổ, Tập, Diệt, Đạo) và những tư tưởng “ta, của ta”.
- “lượng thông tin này (thích thú) được lưu vào ‘kho chứa’ cụ thể là cấu trúc ADN của tế bào thần kinh não bộ… và được dẫn truyền tới các tế bào trong cơ thể.” (tr. 57)
- Thế gian, nguồn gốc, sự chấm dứt và con đường chấm dứt Thế gian đều nằm trong “tấm thân dài độ thước mấy này cùng với Tưởng và Thức” (liên quan đến thông tin trong kho chứa).
- Ngũ Uẩn và Ngũ Thủ Uẩn:
- Ngũ Uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Là các “danh pháp” và “sắc pháp” sinh diệt theo Duyên Khởi. Chúng vô thường, vô ngã, không có chủ nhân.
- Ngũ Thủ Uẩn: Là Ngũ Uẩn bị chấp thủ “Ta, của Ta”. Đây là Khổ của phàm phu.
- “Vì không biết như thật Năm uẩn vô thường, vô ngã nên kẻ Phàm chấp thủ một cái Ta là chủ nhân của Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức làm khởi lên Năm thủ uẩn.” (tr. 137)
- Sự xung đột trong cuộc sống (gia đình, xã hội…) là do các “cái Ta” chấp thủ Ngũ Uẩn (như “con là của Ta”, “mẹ là của Ta”) mà phát sinh.
- Chấp Có, Chấp Không và Lý Duyên Khởi:
- Hiểu biết đúng về Duyên Khởi giúp tránh cả hai cực đoan: chấp có (cho rằng các pháp luôn tồn tại) và chấp không (cho rằng các pháp không có thật).
- “Ai với Chánh trí tuệ thấy như chơn các pháp tập khởi thì không cho rằng các pháp là không có. Ai với Chánh trí tuệ thấy như chơn các pháp đoạn diệt thì không cho rằng các pháp là thường còn.” (tr. 195)
- Ví dụ về cảm giác vị ngọt: Nó “tập khởi” (sinh lên) do duyên (Căn Trần tiếp xúc) nên không phải “không có”. Nó “đoạn diệt” khi duyên hết nên không phải “thường còn”.
- “Đói ăn khát uống” – Sự buông xả tự nhiên:
- Thành ngữ này không nói về việc ăn uống thông thường mà nói về trạng thái tuỳ duyên một cách “tự nhiên như nhiên” (tr. 127), không cần nỗ lực cố gắng.
- Nó là sự buông xả (Xả) xảy ra một cách tự nhiên khi đã thấy biết như thật Duyên khởi và Tứ Thánh Đế.
- Ví dụ về Từ Đạo Hạnh: Khi mối nghi “Chân Tâm là cái gì” bị phá vỡ, khoảng lặng (Xả) xuất hiện đầy bình an. Khi hỏi làm thế nào để giữ gìn, Sùng Phạm trả lời “Đói ăn khát uống” – ý nói khi đã thấy biết như thật, sự buông xả sẽ xảy ra tự nhiên như đói thì ăn, khát thì uống.
- Thực tại là Tâm (thế giới các Cảm thọ), không phải Cảnh (thế giới khách quan):
- Thế gian là “những gì được thấy, những gì được nghe, những gì được cảm nhận, những gì được nhận thức.” (tr. 88)
- Những điều này là thế giới các Cảm thọ (Thọ), nó là Tâm, không phải thế giới khách quan bên ngoài (Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần).
- “Thế gian là Thế giới các Cảm thọ, nó là Tâm chứ không phái là Cảnh, không phải là thế giới khách quan Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần bên ngoài như loài người hiểu.” (tr. 89)
- Thế giới cảm thọ của mỗi người, mỗi loài là khác nhau dù đối tượng khách quan giống nhau, vì căn (mắt, tai…) khác nhau.
- Tự mình nỗ lực – Không có tha lực:
- Con đường chấm dứt khổ là do tự lực của mỗi người, không do một tha lực nào.
- “đoạn tận khổ đau không do một tha lực nào khởi lên mà phải do tự lực của mỗi người khởi lên con đường chưa bao giờ khởi…” (tr. 78)
- Điều này phê phán quan niệm tìm cầu phước báo, tha lực, năng lực kỳ diệu, cảnh giới siêu việt để giải thoát.
Kết luận: Tài liệu này cung cấp một cách diễn giải sâu sắc về giáo lý cốt lõi của Phật giáo dựa trên việc quán sát trực tiếp thực tại theo Lý Duyên Khởi và Tứ Thánh Đế. Nó thách thức những hiểu biết thông thường dựa trên suy luận hoặc niềm tin, và nhấn mạnh con đường thực hành Bát Chánh Đạo để chuyển hóa Tâm từ trạng thái vô minh, chấp thủ (Bát Tà Đạo) sang trạng thái trí tuệ, buông xả (Bát Chánh Đạo), từ đó đạt đến sự chấm dứt khổ ngay trong hiện tại.
Trích dẫn đáng chú ý:
- “Đến để mà thấy được lời Phật dạy là hết sức nan giải đối với nhân loại, vì quy luật nhận thức của nhân loại chỉ tuân thủ đến để mà tin, chứ không có phương cách đến để mà thấy.” (tr. 16)
- “Chỉ có pháp hiện tại / Tuệ quán chính ở đây / Không động không rung chuyển.” (Bài kệ Nhất Dạ Hiền Giả, tr. 15)
- “Tất cả con người (ngoại trừ các bậc Thánh) bất luận ngu hay trí, dân tộc, tôn giáo nào, khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần thì đều khởi lên các lộ trình tâm bát tà đạo, đều khởi lên khổ, chẳng trừ một ai.” (tr. 38)
- “Chính Tham ái là Nguyên nhân Khổ chứ không phải là vô thường.” (tr. 112)
- “Thế gian là Thế giới các Cảm thọ, nó là Tâm chứ không phái là Cảnh, không phải là thế giới khách quan Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần bên ngoài như loài người hiểu.” (tr. 89)
- “Hãy tự mình nỗ lực.” (tr. 78)