Bát Chánh Đạo (tiếng Pali: Aṭṭhaṅgika Magga, nghĩa là con đường tám yếu tố chân chánh) là một trong những giáo lý cốt lõi của đạo Phật. Đây là con đường dẫn đến chấm dứt khổ đau và đạt đến giác ngộ, giải thoát. Bát Chánh Đạo thuộc phần thứ tư trong Tứ Diệu Đế – gọi là Đạo đế, tức là con đường thực hành để đoạn diệt khổ đau.

ĐỌC BẢN ĐẦY ĐỦ PDF
Báo Cáo Tóm Tắt: Bát Chánh Đạo – Lộ trình tâm bát tà đạo và bát chánh đạo (Trích đoạn)
Giới thiệu chung:
Cuốn sách này được biên soạn dành cho những người đã có kiến thức nền tảng và thực hành Tứ Thánh Đế, nhằm mục đích cung cấp tài liệu hướng dẫn và đối chiếu. Văn phong cô đọng, ít ví dụ, và sử dụng nhiều thuật ngữ Phật học, đòi hỏi người đọc cần quán sát kỹ lưỡng và hiểu các thuật ngữ trong ngữ cảnh của sách. Ngôn ngữ được xem là phương tiện để chỉ các “pháp” (sự vật, hiện tượng), và mỗi ngôn từ có thể ám chỉ nhiều pháp khác nhau, đòi hỏi sự quán sát ngữ cảnh để hiểu đúng.
Chủ đề chính và Ý tưởng quan trọng:
1. Mục đích của cuộc sống:
- Cuộc sống thế gian được mô tả là một vòng luẩn quẩn của khổ đau. Con người sinh ra, lớn lên, làm việc, xây dựng gia đình, rồi già và chết, trải qua nhiều thành công, hạnh phúc nhưng cũng vô số cay đắng, sầu khổ, thất bại. Cuộc sống “vui ít, khổ nhiều, lo toan nhiều mà cay đắng lại càng nhiều hơn”.
- Mục đích thực sự của mọi hành động của con người, dù là mua sắm hay khám phá vũ trụ, đều là để “chấm dứt khổ”. Ngay cả việc tìm kiếm hạnh phúc và lạc thú cũng chỉ là phương tiện để dập tắt khổ, không phải mục đích tự thân.
- Trích dẫn: “Khi ra chợ mua một đôi dép, không phải mục đích là đôi dép, mà mục đích mua một đôi dép là để không bị khổ do đạp gai, dẫm đá… Vậy mục đích mua đôi dép là để chấm dứt khổ tâm, khổ thân chứ không phải mục đích là đôi dép đó.”
- Trích dẫn: “Để có được hạnh phúc vật chất, hạnh phúc tinh thần thỏa mãn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, thì không biết bao nhiêu cay đắng, sầu, bi, khổ, ưu, não khởi lên.”
- Elvis Presley được dùng làm ví dụ về sự thật này: dù đạt được thành công và danh tiếng tột đỉnh nhưng vẫn không thoát khỏi khổ đau.
- Trích dẫn: “Điển hình như Elvis Prestley, vua nhạc rock, thành đạt về danh tiếng và tiền bạc mà trước khi từ giã cõi đời ông đã hát bài hát cuối cùng, bài hát đã làm cho người hâm mộ không cầm được nước mắt bởi điệp khúc “Sao thất vọng cứ đến khi ta mãi đi tìm”.”
- Mục đích cuối cùng của cuộc sống theo lời dạy của Đức Phật là “chấm dứt khổ”, đạt đến quả vị A La Hán. Khi đạt đến trạng thái này, không còn ham thích, luyến ái với bất kỳ niềm vui hay lạc thú nào.
- Trích dẫn: “Mục đích của cuộc sống là chấm dứt khổ, và đây là đích đến có thực của con người.”
- Trích dẫn: “Khi hết khổ là không còn ham thích, luyến ái, ràng buộc với bất cứ niềm vui, hạnh phúc, lạc thú vật chất hay tinh thần nào nữa.”
2. Duyên Khởi:
- Định lý Duyên khởi: Các pháp (sự vật, hiện tượng) phát sinh do duyên Xúc (sự tiếp xúc). Cái thấy biết đúng sự thật về duyên khởi là “Đến để mà thấy”, thấy trực tiếp sự thật hiện tiền trong đời sống hàng ngày.
- Trích dẫn: “Pháp mà Đức Thế Tôn khéo thuyết giảng, có tính chất là “Đến để mà thấy”. Đến để mà thấy là thấy sự thật hiện tiền nơi đời sống hằng ngày của mỗi người…”
- Tính vô thường và vô ngã của các pháp: Các pháp sinh lên và diệt đi do duyên Xúc. Chúng không có nền tảng hay nơi chốn thường trú (vô thường) và không có quan hệ phụ thuộc hay sở hữu (vô ngã). Nhân và quả độc lập, nhân diệt rồi quả mới sinh.
- Trích dẫn: “Trước khi sinh ra nó không ở một chỗ nào cả… khi diệt đi cũng không trở về chỗ nào cả. Không có một nền tảng, một nơi chốn nào để thường trú, tính chất này của các pháp gọi là vô thường.”
- Trích dẫn: “Quan hệ của các pháp nếu quán sát theo thời gian thì nhân và quả hoàn toàn độc lập… không có nhân nào là chính, không có nhân nào là phụ… nên quan hệ giữa chúng độc lập, không phụ thuộc lẫn nhau, không có quan hệ sở hữu.”
- Tuệ tri (Thấy Biết đúng sự thật) và Vô minh (Không Thấy Biết như thật):Tuệ tri Duyên khởi là thấy biết đúng sự thật về hai nhân tiếp xúc cùng diệt mà phát sinh quả.
- Tuệ tri các pháp Duyên khởi là biết các pháp vô thường, vô ngã.
- Vô minh là không thấy biết đúng sự thật về Duyên khởi và Tứ Thánh Đế. Cái thấy “một nhân sinh quả” là Thường kiến, đưa đến hiểu biết sai lầm về chủ thể và đối tượng, không thấy được tính vô thường, vô ngã.
- Trích dẫn: “Không Tuệ tri Duyên khởi là Thấy Biết không như thật Duyên khởi, thấy biết đó gọi là Vô minh hay Vọng tưởng. Cụ thể là chỉ thấy một nhân sinh quả…”
- Mười hai Duyên Khởi: Quán sát lộ trình sinh diệt của mười hai chi phần để thấy sự thật về khổ và nguyên nhân của khổ (hai chân lý đầu trong Tứ Thánh Đế).
- Quán sát thô (Vô minh → Hành → Thức → Danh sắc) để hiểu nguyên lý luân hồi sinh tử.
- Quán sát tế (Sáu Xứ → Xúc → Thọ → Ái → Thủ → Hữu → Già chết sầu bi, khổ, ưu, não) là sự thật đang xảy ra trong hiện tại.
- Vô minh được định nghĩa là “không thấy biết như thật về Khổ, Tập, Diệt, Đạo”. Nội dung của Vô minh bao gồm Thường kiến, Đoạn kiến, và các nhận thức sai lầm về “Ta và của Ta”.
- Trích dẫn: “Vô minh là không thấy biết như thật về Khổ, không thấy biết như thật về nguyên nhân Khổ, không thấy biết như thật về Khổ Diệt, không thấy biết như thật về Con đường đi đến Khổ Diệt.”
- Hành (hành vi thân, khẩu, ý) phát sinh do Vô minh. Bao gồm Tham, Sân, Si.
- Trích dẫn: “Với nhận thức Vô Minh, một đối tượng dễ chịu là khổ và nguyên nhân của khổ, nên khi đối diện đối tượng dễ chịu sẽ phát sinh hành vi thích thú, yêu thích. Hành vi này gọi là Tham.”
- Trích dẫn: “Với nhận thức Vô Minh, một đối tượng khó chịu là khổ và là nguyên nhân của khổ, nên khi đối diện đối tượng khó chịu sẽ phát sinh hành vi ghét bỏ… Hành vi này gọi là Sân…”
- Trích dẫn: “Với nhận thức Vô Minh, một đối tượng trung tính… mà phát sinh hành vi tìm kiếm một đối tượng dễ chịu… Hành vi này gọi là Si.”
- Sáu Căn và Sáu Trần: Các bộ phận vật chất cơ bản nhất của giác quan (Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý Căn) và đối tượng của chúng (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp trần). Ý Căn là tế bào thần kinh ở não bộ.
- Pháp trần và “Kho chứa”: Pháp trần là những thông tin được lưu giữ trong “kho chứa”, tương tự như ổ cứng máy tính. Nó bao gồm Vô minh, nhận thức “Ta và của Ta”, tri thức, kinh nghiệm, thói quen. Lượng thông tin này được cho là lưu giữ trong ADN.
- Trích dẫn: “Pháp trần là những thông tin được lưu giữ trong “kho chứa”, tương tự như các thông tin lưu giữ trong ổ cứng máy vi tính.”
- Trích dẫn: “Lượng thông tin này là đối tượng của Ý Căn gọi là Pháp trần bao gồm: Vô minh, Ta và của Ta, tri thức, kinh nghiệm, thói quen v.v…”
- Trích dẫn: “Vì vậy “kho chứa” này không thể ở nơi Danh pháp. Do đó nó phải được lưu giữ trong Sắc pháp, và nó được lưu giữ ở đâu trong Sắc pháp (thân). Trong năm Xúc xứ là Ngoại Xúc, riêng phần Ý có sự tiếp xúc giữa tế bào thần kinh não bộ và lượng thông tin trong “kho chứa”, vì vậy phải xảy ra trong tế bào (Nội Xúc)… có thể kết luận rằng: lượng thông tin phải được lưu giữ ở ADN trong nhân tế bào.”
- Tâm biết trực tiếp (Tưởng) và Ý thức:Tâm biết trực tiếp (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức, Tưởng thức) phát sinh do Căn-Trần tiếp xúc, biết thuần túy cảm giác mà không bị chi phối bởi tri thức hay khái niệm.
- Ý thức phát sinh sau Tưởng, thông qua Niệm (tìm kiếm thông tin trong kho chứa) và Tư duy (phân tích, so sánh). Ý thức là tâm biết nhị nguyên, bị chi phối bởi thông tin trong kho chứa, đặc biệt là Vô minh và “Ta của Ta”.
- Trích dẫn: “Do có Niệm mà phát sinh hành vi Tư duy… đưa đến kết luận cái đó là gì? Đặc tính ra sao?… Kết luận này là (tâm biết) ý thức.”
- Trích dẫn: “Thực sự không có một cái TA chủ thể biết cũng như cái được biết không phải là sáu CẢNH trần, nên tâm biết Ý thức nhị nguyên này không đúng sự thật, nó là Vô minh.”
- Ý thức luôn là tâm biết về quá khứ, trong khi tâm biết trực tiếp (Tưởng) là tâm biết đang xảy ra ở hiện tại.
- Đức Phật không phải là bậc toàn tri, toàn kiến; các thức sinh diệt liên tục và tại một thời điểm chỉ có một thức khởi lên.
- Trích dẫn: “Đức Phật khẳng định rằng Ngài không phải là bậc toàn tri, toàn kiến, nghĩa là không phải cùng một lúc thấy biết tất cả, không phải sáu Thức cùng lúc phát khởi mà sáu Thức này sinh diệt liên tục, đan xen với nhau và tại một thời điểm chỉ có một Thức khởi lên.”
- Năm Uẩn và Năm Thủ Uẩn: Thực tại được chia thành năm nhóm (Uẩn) phát sinh do duyên Xúc: Sắc (Căn, Trần), Thọ (cảm giác), Tưởng (tâm biết trực tiếp), Hành (Niệm, Tư duy, Tham, Sân, Si, Định, Dục, Tinh tấn, Tác ý, Thân hành, Khẩu hành, Sầu bi khổ ưu não), Thức (Ý thức). Năm Thủ Uẩn là Năm Uẩn bị chấp thủ, bị coi là “Ta” hoặc “của Ta”, là nguyên nhân của khổ.
3. Tái sinh và “Kho chứa” thông tin trong ADN:
- Cái đi tái sinh không phải là linh hồn, tự ngã hay tâm thức thường hằng, mà là “lượng thông tin pháp trần trong ADN”. Lượng thông tin này bao gồm thân, khẩu, ý nghiệp tích lũy qua nhiều đời.
- Trích dẫn: “Cái gì đi tái sinh? Không phải một linh hồn, một tự ngã, một cái Ta hay tâm thức thường hằng nào đó, mà chỉ là lượng thông tin pháp trần trong ADN của mỗi người đi tái sinh.”
- Hiện tượng thần đồng và khả năng ngoại cảm được giải thích là do sự kích hoạt hoặc đột biến ADN làm “trồi” lên thông tin từ những kiếp trước.
- Trích dẫn: “Có những đứa trẻ thần đồng mới 2, 3 tuổi đã nói được nhiều thứ tiếng tuy chưa đi học… vì kiếp trước đã có thói quen này lưu giữ trong ADN.”
- Trích dẫn: “Có những người sau khi chết lâm sàng hoặc do một sự kiện đặc biệt nào đó, họ có một số khả năng khác thường (chẳng hạn như khả năng ngoại cảm), vì có sự đột biến ADN làm “trồi” lên các thông tin ở những kiếp trước.”
- Nhân bản vô tính cho thấy sự ra đời của con người phụ thuộc vào thông tin di truyền và thông tin pháp trần trong tế bào gốc, không cần một thức tái sinh từ bên ngoài xâm nhập.
- Hiện tượng người được ghép tạng có ký ức của người cho được giải thích là do thông tin pháp trần trong ADN của tế bào tạng được truyền dẫn vào ADN của người nhận, khiến Niệm và Tư duy sử dụng hai lượng thông tin.
- Trích dẫn: “Khi được thay tim, vì lượng thông tin pháp trần của người chết ở trong ADN của tế bào tim, nên được truyền dẫn khuếch tán vào ADN của các tế bào người đang sống… và như vậy trong ADN của người sống có hai loại thông tin: thông tin của người sống và một phần của người chết.”
4. Hóa sanh và Khổ cảnh sau khi chết:
- Hóa sanh là sự tồn tại sau khi chết, phụ thuộc hoàn toàn vào thân, khẩu, ý nghiệp (thông tin pháp trần lưu giữ trong ADN). Khổ cảnh của hóa sanh được mô tả là “kinh hoàng, ghê gớm hơn tất cả mọi nỗi khổ trên đời”.
- Trích dẫn: “Sự tồn tại của Hóa Sanh này tùy thuộc hoàn toàn vào thân, khẩu, ý, nghiệp đã tạo tác được lưu giữ trong ADN (tức những thông tin pháp trần) của người đó.”
- Trích dẫn: “Nỗi khổ này thực sự kinh hoàng, ghê gớm hơn tất cả mọi nỗi khổ trên đời mà con người biết đến.”
- Khả năng ngoại cảm của một số người được giải thích là do thâm nhập “kho chứa” thông tin của các hóa sanh, không phải thấy linh hồn.
- Hóa sanh không thể giúp đỡ hay phù hộ người thân vì sắc pháp của họ không thể tác động vào thế giới vật chất “thô”.
- Không thể giúp hóa sanh thoát khổ bằng năng lực tâm linh, cầu nguyện hay cúng tế. Chỉ khi hóa sanh tự thấy sự thật về nghiệp lực của mình, thông tin sai lầm mới được xóa bỏ dần.
- Trích dẫn: “Không có một năng lực tâm linh nào, một sự cầu nguyện nào, một sự cúng tế nào có thể xóa bỏ được những thông tin ấy trong “kho chứa”.”
- Trích dẫn: “Khi và chỉ khi cô ấy tự thấy, tự biết cái sự thật ấy thì các nhận thức sai lầm, hiểu lầm ấy mới được xóa đi.”
- Cách duy nhất để chấm dứt khổ cảnh Hóa Sanh là “chặt xuống, đào lên tất cả gốc rễ, chẻ nhỏ ra, phơi khô đốt thành tro rồi rải tro bay theo gió hoặc dìm xuống dòng nước” tất cả những sanh y (nguyên nhân tái sinh) và hữu ái (ái luyến sự tồn tại) ngay trong đời sống này.
5. Phương pháp tu tập:
- Thiền tọa: Mục đích không phải buộc tâm vào một đối tượng, mà là thực hành Chánh Niệm (nhớ đến chú tâm) để thay đổi lộ trình tâm từ Bát Tà Đạo sang Bát Chánh Đạo. Sự chú tâm phải thực hành với tất cả các đối tượng (cảm giác).
- Trích dẫn: “Thực hành thiền ở đây không với mục đích buộc tâm vào một đối tượng, mà là thực hành Chánh Niệm (nhớ đến chú tâm) với mục tiêu thay đổi lộ trình tâm từ Bát Tà Đạo sang Bát Chánh Đạo, do đó sự chú tâm phải thực hành với tất cả đối tượng, tức mọi cảm giác: cảm giác hình ảnh, âm thanh, mùi, vị, xúc chạm, cảm giác pháp trần.”
- Chú tâm vào cảm giác trên thân và cảm giác hơi thở theo bốn giai đoạn, kinh nghiệm hai khoảng nghỉ giữa hơi thở vào và hơi thở ra.
- Tu tập Định (Bốn bậc thiền): Phát triển tuần tự nhờ sự chú tâm vào các cảm giác.
- Sơ thiền: Ly dục ly bất thiện pháp, có tầm có tứ (chú tâm có hướng đến đối tượng).
- Nhị thiền: Nội tĩnh nhất tâm, không tầm không tứ.
- Tam thiền: Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác.
- Tứ thiền: Xả lạc, xả khổ, diệt trừ hỷ ưu, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
- Thấy biết đúng sự thật (Thắng tri): Trái ngược với Tưởng tri (của phàm phu), Thắng tri không gắn với “Ta”, “của Ta” và sự chấp thủ. Người hữu học và A La Hán đều có Thắng tri về các pháp và Niết bàn.
- Trích dẫn (Kinh Pháp Môn Căn Bản): “Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy đã không nghĩ đến địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) như là địa đại, đã không nghĩ: “Ðịa đại là của ta”, – không dục hỷ địa đại.”
6. Ái Tận Giải Thoát và Kinh Tiểu kinh Đoạn Tận Ái:
- Lời dạy tóm tắt của Đức Phật về Ái tận giải thoát có thể gói gọn trong năm câu, từ Pháp Học đến Pháp Thành.
- Trích dẫn: “Toàn bộ Giáo Pháp của Đức Thế Tôn mà Ngài đã thuyết giảng trong 45 năm có thể tóm tắt trong năm câu bao gồm: Pháp Học, Pháp Hành, Pháp Thành.”
- Quán sát cảm thọ (lạc, khổ, bất khổ bất lạc) với tính vô thường, ly tham, đoạn diệt, xả ly là chìa khóa để không chấp trước và chứng đạt Niết-bàn.
- Trích dẫn: “Vị ấy sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy.”
- Câu chuyện về Ngài Đại Mục Kiền Liên làm chấn động cõi trời của Thiên chủ Sakka là một ẩn dụ. Nó ám chỉ rằng chỉ khi đối diện với khổ đau, sợ hãi, con người mới có động lực tìm hiểu và thực hành Tứ Thánh Đế để thoát khổ.
- Trích dẫn: “Nếu một người đang say mê tận hưởng các dục lạc thì người đó không thể học, hiểu và tu tập Tứ Thánh Đế, chỉ khi nào người đó đối diện với khổ não, sợ hãi, lông tóc dựng ngược, lúc đó mới có mong muốn học, tìm hiểu và tu tập Tứ Thánh Đế.”
7. Kinh Nhất Dạ Hiền Giả:
- Nhấn mạnh việc “Tuệ quán pháp hiện tại”, không truy tìm quá khứ hay ước vọng tương lai.
- Trích dẫn: “Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng… Chỉ có pháp hiện tại Tuệ quán chính ở đây.”
- “Truy tìm quá khứ” là tìm kiếm sự hân hoan trong các uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) của quá khứ.
8. Kinh Niệm Xứ:
- “Con đường độc nhất” đưa đến thanh tịnh, vượt khổ, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn.
- Trích dẫn: “đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết- bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ.”
- Bốn Niệm xứ là quán sát thân, thọ, tâm, pháp “nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời”.
- Quán thân: Thấy thân như là nó là, quán tính sinh khởi và diệt tận của thân, sống không nương tựa, không chấp trước. Bao gồm quán sát các trạng thái của thân, các bộ phận cơ thể, và thi thể sau khi chết để thấy tính vô thường và bất tịnh.
- Quán thọ: Tuệ tri (biết rõ) các loại cảm thọ (lạc, khổ, bất khổ bất lạc; vật chất, không vật chất) khi chúng phát sinh.
- Quán tâm: Tuệ tri các trạng thái của tâm (có ái dục, không ái dục, có sân hận, không sân hận, v.v.) khi chúng phát sinh, biết rõ sự sinh khởi và đoạn diệt của chúng.
- Quán pháp: Tuệ tri các pháp (bao gồm ngũ cái, ngũ uẩn, lục nội xứ, thất giác chi, tứ thánh đế) khi chúng phát sinh.
9. Bố thí:
- Việc bố thí có thể không mang lại quả lớn nếu được thực hiện với tâm mong cầu, trói buộc, mong được tích chứa, hoặc với ý nghĩ hưởng thụ trong đời sau. Việc bố thí này có thể dẫn đến tái sinh ở cõi thấp hơn chư Thiên Phạm chúng thiên và vẫn phải “trở lui lại” trạng thái này.
- Trích dẫn: “Ở đây, này Sàriputta, có người bố thí với tâm mong cầu, bố thí với tâm trói buộc (về kết quả), bố thí với tâm mong cầu được chất chứa, bố thí với ý nghĩ: “Tôi sẽ hưởng thọ cái này trong đời sau”… vị ấy trở thành “vị trở lui lại”, trở lui trạng thái này.”
- Việc bố thí mang lại quả lớn nếu được thực hiện không với tâm mong cầu, không trói buộc, không mong được tích chứa, không với ý nghĩ hưởng thụ đời sau, không vì truyền thống hay nghĩa vụ, nhưng “với ý nghĩ để trang nghiêm tâm, để trang bị tâm”. Việc bố thí này có thể dẫn đến tái sinh ở cõi Phạm chúng thiên và trở thành vị Bất lai (không trở lui trạng thái này).
- Trích dẫn: “Nhưng vị ấy bố thí với ý nghĩ để trang nghiêm tâm, để trang bị tâm… sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở Phạm chúng thiên… vị ấy trở thành vị Bất lai, không trở lui trạng thái này.”
10. Như Lai và Sự Thấy Biết:
- Đức Phật, Như Lai, được mô tả là vị đã thấy, nghe, cảm giác, thức tri các pháp một cách rốt ráo, không còn tưởng tượng hay chấp trước vào chúng.
- Trích dẫn: “Như vậy, này các Tỷ Kheo, Như Lai là vị đã thấy những gì cần thấy, nhưng không có tưởng tượng điều đã được thấy, không có tưởng tượng những cái gì không được thấy, không có tưởng tượng những gì cần phải thấy, không có tưởng tượng đối với người thấy.”
- Sự thấy biết của Như Lai là vượt trên sự chấp trước và tà kiến của phàm phu. Ngài biết rõ khổ đau của loài người bị “câu móc” bởi sự chấp trước.
11. Các loại神通 (Thông):
- Túc mạng thông: Khả năng nhớ lại các tiền kiếp, được giải thích là do kích hoạt thông tin về tâm lưu giữ trong ADN từ những kiếp trước.
- Trích dẫn: “Đây là khả năng có thể nhớ lại những tiền kiếp. Các thông tin lưu giữ trong ADN của mỗi người không phải chỉ là thông tin được lưu giữ trong kiếp này, mà là các thông tin được tích tập trong vô số kiếp đã sống.”
- Tha tâm thông: Khả năng biết được tâm người khác (“đọc được” thông tin trong “kho chứa” ADN của họ). Có thể do tu tập từ kiếp trước hoặc đột biến ADN. Một số trường hợp ngoại cảm là do hóa sanh xâm nhập và tương tác.
- Trích dẫn: “Tha tâm thông là khả năng biết được tâm người khác, cụ thể là biết người khác đang nghĩ gì, thấy gì, biết gì, đang muốn nói gì, đang muốn làm gì.”
- Trích dẫn: “Nhưng nhưng người có khả năng ngoại cảm rất ít ỏi mà đa phần người có khả năng ngoại cảm là do một hoá sanh xâm nhập và tương tác.”
- Hóa Sanh: Là một dạng thức tái sinh sau khi chết, tồn tại dựa trên thông tin nghiệp lực trong ADN. Hóa Sanh thấy “cảnh ảo” thông qua tha tâm thông của người khác, không phải cảnh thật.
Các Ý tưởng và Sự thật quan trọng nhất:
- Mục đích duy nhất và thực sự của cuộc sống là chấm dứt khổ. Mọi nỗ lực tìm kiếm hạnh phúc và lạc thú chỉ là phương tiện tạm thời để xoa dịu khổ.
- Thực tại là Vô thường và Vô ngã. Các pháp sinh diệt do duyên Xúc, không có bản chất cố định hay chủ sở hữu.
- Vô minh là nguyên nhân chính của khổ đau và luân hồi. Vô minh là sự thấy biết không đúng sự thật về Duyên khởi và Tứ Thánh Đế, đặc biệt là nhận thức sai lầm về “Ta và của Ta”.
- “Kho chứa” thông tin pháp trần trong ADN là nền tảng cho sự tái sinh và nghiệp lực. Lượng thông tin này (bao gồm Vô minh, “Ta và của Ta”, kinh nghiệm, thói quen, nghiệp) là thứ đi tái sinh, không phải linh hồn hay tự ngã.
- Ý thức là tâm biết nhị nguyên và không đúng sự thật. Nó bị chi phối bởi thông tin trong “kho chứa” và luôn là tâm biết về quá khứ. Tâm biết trực tiếp (Tưởng) là biết thuần túy cảm giác hiện tại.
- Thực hành Bát Chánh Đạo, đặc biệt là Chánh Niệm, là con đường duy nhất để chuyển đổi lộ trình tâm từ Bát Tà Đạo sang Bát Chánh Đạo và chấm dứt khổ. Sự chú tâm phải thực hành trên tất cả các cảm giác.
- Sự đoạn tận khổ (Niết-bàn) là sự xóa bỏ hoàn toàn thông tin “VÔ MINH, TA CỦA TA” trong ADN. Điều này xảy ra khi Bát Chánh Đạo khởi lên liên tục và vững chắc.
- Chỉ khi đối diện với khổ đau (hiểu được sự thật Khổ), con người mới có động lực thực sự để tìm kiếm con đường thoát khổ.
- Cái chết là cơ hội để chấm dứt luân hồi sinh tử. Nếu duy trì thái độ bình thản, không Tham, Sân, Si khi hấp hối, sẽ không có nhân để phát sinh thức tái sinh.
- Hóa sanh là dạng tồn tại khổ đau sau khi chết do nghiệp lực. Không thể giúp đỡ hóa sanh thoát khổ từ bên ngoài; chỉ khi hóa sanh tự thấy sự thật, nghiệp lực mới cạn kiệt dần. Cách duy nhất để tránh khổ cảnh này là tiêu diệt sanh y và hữu ái ngay trong kiếp sống hiện tại.
Bản tóm tắt này đã cố gắng bao gồm các điểm chính và trích dẫn quan trọng từ nguồn bạn cung cấp. Hy vọng nó hữu ích cho bạn.