Trang chủ Phật giáo Phật học Tẩn xuất hay tấn xuất?
Phật học

Tẩn xuất hay tấn xuất?

Chia sẻ
Tẩn xuất hay tấn xuất?
Chia sẻ

Theo Từ điển Phật học Online: Tẩn xuất là “trục xuất khỏi giáo đoàn”. Xin thưa, cách viết “tẩn xuất” chưa chính xác, viết đúng phải là tấn xuất (摈出/擯出, bìn chū). Tấn xuất là thuật ngữ Phật giáo, có nghĩa là sự trục xuất, đày đi, tương ứng với từ tiếng Anh là banishment.

Vì sao cách phiên là tấn chính xác hơn tẩn? Bởi vì theo Khang Hi tự điển, tấn (摈) có phiên thiết là tất nhận thiết (必仞切): t(at) + (nh)an = tấn, do chữ thứ nhất thanh sắc (tất) kết hợp với chữ thứ hai thanh nặng (nhận) sẽ tạo chữ có thanh sắc (tấn); ngoài ra, Khang Hi còn chú âm chữ tấn (摈) là “tân khứ thanh” (賓去聲), tức âm “tân” kết hợp với khứ thanh (thanh sắc) sẽ tạo ra âm “tấn”. Từ 2 yếu tố này có thể khẳng định chữ 摈 phiên là tấn chứ không phải tẩn.

Khởi thủy tấn (摈) là dị thể của chữ “傧”, nghĩa gốc là “chào đón khách”. Ví dụ: Vương mệnh chư hầu, tắc tấn (Nhà vua ra lệnh cho các chư hầu phải tiếp khách) – Chu Lễ. Xuân quan, Đại Tông bá). Hiện nay, tấn (摈) được dùng riêng với nghĩa là từ chối, từ bỏ: Hiền giả tấn quy triều (Người hiền đức bị trục xuất khỏi triều đình) – Hoài Nam Tử. Thuyết lâm huấn.

Xuất (出) là ký tự được nhìn thấy lần đầu trong các bản Giáp cốt văn, nghĩa gốc là “từ trong ra ngoài”, đi từ nơi này đến nơi khác, ngược lại với nhập (入: vào). Ví dụ: Xuất, khứ dã (Xuất, có nghĩa là đi) – Ngọc Thiên. Xuất bộ. Về sau chữ xuất mở rộng, có thêm thành nhiều nghĩa khác, chẳng hạn như sự rời đi, gửi đi, bàn giao, chi tiêu, sản xuất và sinh sản…

Xét về từ nguyên, tấn xuất (摈出) có nguồn gốc từ chữ प्रव्राजन (pravrājana) hoặc नाशन (nāśana) trong Phạn ngữ; chữ pabbājana hoặc nāsana trong tiếng Pali; hay ပ-ဗ္ဗာဇန (pa-bavajana) trong tiếng Myanmar – (Từ điển Myanmar-Pali của U Hau Sein). Người Nhật cũng sử dụng thuật ngữ tấn xuất (擯出, ひんしゅつ, hinshyutsu) với nghĩa tương tự như ở Trung Quốc, song từ này còn có nghĩa hiện đại là bấn xích (loại ra, bỏ đi) và bài xích (loại bỏ, loại trừ).

Trong Phật giáo, tấn xuất có nghĩa là “xử phạt các tỳ-kheo hoặc sa-di phạm giới, loại bỏ người đó ra khỏi đoàn thể Tăng giá”. Theo chương 21 của Thập tụng luật, những người không tuân thủ Bạch tứ yết-ma sẽ không được xuất gia và thọ giới đại giới, nếu phạm nặng thì bị tấn xuất. Tập 17 của Tứ phần luật có các giới luật dành cho các Sa-di, nếu Sa-di nào không chịu tuân theo sẽ bị phạt, thậm chí là bị tấn xuất.

Theo Tỳ Ni Mẫu Kinh (tập 2), có 2 loại tấn xuất : a. Vĩnh tấn (永摈): khai trừ vĩnh viễn; b. Điều phục (调伏): không được tham gia pháp sự; hoặc bị trừng phạt bằng hình thức gọi là mặc tấn (嘿摈): bị Tăng chúng xa lánh, không trò chuyện, giao tiếp.

Ngoài tấn xuất (摈出), trong Phật giáo còn có những thuật ngữ được dùng tương tự, đó là diệt tấn (灭摈), khu tấn (驱摈), tấn phạt (摈罚), khu xuất (驱出), khu khiển (驱遣), tấn trị (摈治) hoặc chỉ gọi đơn giản là tấn (摈).

Theo Thanh Niên

Bài viết cùng chuyên mục
Để không uổng phí một kiếp người
Phật học

Để không uổng phí một kiếp người

Chúng ta đi qua một kiếp người quá vất vả, đi qua...

Tiêu thụ trong chánh niệm
Phật học

Tiêu thụ trong chánh niệm

Làm thế nào để biết truyền thông nào là lành mạnh, truyền...

Nghiệp quả của gieo niềm thất vọng cho người khác
Phật học

Nghiệp quả của gieo niềm thất vọng cho người khác

Khi chọn mua cho mình một thứ gì đó, chúng ta thường...

Nụ cười bất diệt
Phật học

Nụ cười bất diệt

Tại sao bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật tại Lộc...

Năm nguyên lý nhà Phật giúp cho việc điều hành doanh nghiệp
Phật học

Năm nguyên lý nhà Phật giúp cho việc điều hành doanh nghiệp

Xác định mục tiêu Đạo Phật nhấn mạnh việc thấu hiểu mục...

Cốt lõi của giáo huấn Phật giáo
Phật học

Cốt lõi của giáo huấn Phật giáo

Mỗi người trả lời tùy theo những gì mà họ được học...

Kỳ quan nhân gian
Phật học

Kỳ quan nhân gian

Cảnh tượng hy hữu Hình ảnh hiếm thấy Quang cảnh uy hùng...

Những điều kỳ diệu trong cuộc sống người tu
Phật học

Những điều kỳ diệu trong cuộc sống người tu

Kết quả cao nhất là làm Phật trong hiện đời thì tôi...